We use cookies on our website to give you the most relevant experience by remembering your preferences and repeat visits. By clicking “Accept All”, you consent to the use of ALL the cookies. However, you may visit "Cookie Settings" to provide a controlled consent.
'Mỗi đề thi chỉ có 4 câu hỏi khó'
Năm nay, lần đầu tiên tất cả môn thi (trừ Ngữ văn) được tổ chức theo hình thức trắc nghiệm, cũng là lần đầu xuất hiện bài thi tổ hợp Khoa học Tự nhiên, Khoa học Xã hội. Vũ Kiên Định (cựu học sinh trường THPT chuyên Khoa học Tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội), tâm sự đây là năm em thi đại học lần thứ ba. So sánh đề thi của hai năm trước có thể thấy, đề thi năm nay dễ hơn nhiều. Trong phòng thi của Định, nhiều thí sinh làm bài thừa thời gian đến 20 phút. "Nhiều người không đặt trong vị trí của thí sinh nên cho rằng đề thi có tính phân loại cao. Cộng đồng học sinh luyện thi, giáo viên ôn thi là những người trực tiếp làm bài, họ sẽ hiểu đề thi năm nay sẽ khiến điểm số cao tăng vọt. Các chuyên gia giáo dục là người đánh giá qua phổ điểm sẽ nhận thấy đề thi khó tìm ra được thí sinh giỏi thật sự để tuyển chọn", Kiên Định nói. Nguyễn Hùng (cựu học sinh trường Chu Văn An, Hà Nội), nhận định độ khó của đề thi năm nay chỉ bằng nửa năm trước. Cá nhân Hùng cho rằng đề thi môn Hóa chỉ có 4 câu hỏi "khó vừa phải" và đã được ôn luyện.
Theo Hùng, đề thi không phân loại được thí sinh ở khoảng 8 đến 10 điểm nên có tình trạng quá nhiều bạn đạt điểm cao. "Những thí sinh đạt từ 0 đến 6 điểm chủ yếu thi với mục đích xét tốt nghiệp. Họ chỉ làm qua loa môn thi thành phần không dùng xét vào đại học. Vì vậy, nhìn vào phổ điểm, nhiều thí sinh tưởng mình có kết quả cao nhưng đến khi trượt đại học mới biết đâu là sự thật", Hùng phân tích. Ông Nguyễn Đình Độ, Hiệu trưởng trường THPT Thành Nhân, TP.HCM, nhận định mỗi đề thi chỉ có 4 câu ở mức độ tương đối khó, không đủ phân loại học sinh. Ví dụ, môn Hóa mọi năm phân hóa tốt thì năm nay có quá nhiều điểm 10 dẫn đến điểm khối B tăng vọt. Điểm chuẩn cũng theo đó mà tăng cao. Vị hiệu trưởng đề xuất đề thi năm 2018 cần tăng từ 4 thành 8 câu hỏi rất khó trong số tổng 40 câu. Kết cấu đề thi gồm 60% câu hỏi cơ bản đã đáp ứng được nhưng 40% câu hỏi nâng cao cần được hoàn thiện hơn nữa.
Cũng theo thầy Độ, năm 2018, Bộ GD&ĐT vẫn nên tiếp tục duy trì hình thức thi như 2017, bởi mọi sự thay đổi đều khiến giáo viên và học sinh rất vất vả. Thạc sĩ Bùi Gia Hiếu - Hiệu trưởng trường THPT Nhân Việt - cũng nhận định mặt bằng điểm thi của học sinh trong trường năm nay tăng lên đáng kể, do đề dễ. Theo vị hiệu trưởng này, ma trận đề thi thuộc về các phần ghi nhớ, thông hiểu, vận dụng, vận dụng cao. Phần vận dụng cao phải được tăng cường câu hỏi cực khó để phổ điểm phía bên phải sẽ có hình thoải. Phổ điểm sát như năm nay sẽ khiến các trường rất khó tuyển sinh, bởi chỉ cần tăng hay giảm một mức điểm nhỏ cũng có rất nhiều thí sinh trượt.
Theo đánh giá của nhiều giáo viên, mặt bằng chung của điểm thi năm nay cao không phải do trình độ của học sinh tăng, mà là kết quả của việc thay đổi hình thức thi. Trong đó, môn Toán, Lịch sử, Giáo dục Công dân, Địa lý chuyển từ tự luận sang trắc nghiệm. Thầy Lại Tiến Minh (giáo viên dạy Toán trường THPT Lương Thế Vinh, Hà Nội), phân tích năm đầu tiên thi trắc nghiệm nên trong quá trình ôn thi, học sinh lo lắng và ôn khá kỹ dạng bài tập lạ, khó. Thực tế, đề thi lại chỉ đề cập những câu hỏi cơ bản, bám sát sách giáo khoa, không quá khó. Thầy Tiến Minh nêu ý kiến năm 2018, đề thi môn Toán nên có sự thay đổi về độ khó của câu hỏi. Ví dụ, 40% câu hỏi ở mức độ nâng cao sẽ tăng cường yêu cầu vận dụng. Câu hỏi cần gắn với thực tiễn để học sinh biết vận dụng kiến thức liên môn và thực tiễn để sáng tạo, tư duy. Điều này tránh việc học sinh phụ thuộc vào máy tính và sự may rủi.
Năm nay, môn thi Tiếng Anh cũng có sự thay đổi lớn khi không còn phần thi tự luận. Cô Vũ Mai Phương - giáo viên dạy online - đưa ra con số: Môn Tiếng Anh năm 2016 chỉ có 56 điểm 10, năm nay đã tăng lên 4.000 điểm, tỷ lệ tăng gần 80 lần. Nữ giáo viên cho rằng xã hội ngày nay càng yêu cầu đòi hỏi cao về trình độ ngoại ngữ nhưng đề thi lại dễ, gây thất vọng. Cụ thể, các câu hỏi ở mức vận dụng, vận dụng cao chiếm khoảng 15 câu nhưng đều không quá khó.
“Những học sinh đạt điểm 10 không hẳn các em xuất sắc, có thể do 'khoanh bừa' mà đúng. Điều này vô tình tạo ra nghịch lý, người may mắn có thể điểm sẽ cao hơn người có lực học tốt", cô Phương nêu. Từ những thông tin trên cho thấy, đề thi Tiếng Anh vẫn nên cần thiết có phần tự luận (chiếm 2 điểm). Ở những năm trước, học sinh và giáo viên rất hào hứng với phần này. Phần tự luận trong đề giúp học sinh tăng cường khả năng tư duy ngôn ngữ và trau dồi kỹ năng viết.
Đề thi phân hóa tốt sẽ không có tình trạng trượt oan
TS Lê Trường Tùng - Chủ tịch Hội đồng quản trị ĐH FPT - nhận định ra đề thi rất khó. Hiện tại, ngân hàng đề của Bộ GD&ĐT chưa đủ phong phú nên cần được tích lũy thời gian dài. TS Trường Tùng cho rằng một kỳ thi tạo nên "mưa điểm 10" đồng nghĩa đề thi dễ. Ví dụ môn Toán, nếu tính thí sinh điểm 7 trở lên sẽ có khoảng 200.000 em, đồng nghĩa với một phần tư thí sinh dự thi đạt được. Khi điểm thi quá cao, các trường sẽ vất vả hơn trong việc tuyển đầu vào, không phân biệt được học sinh trong khoảng từ 8 đến 10 điểm là giỏi và giỏi xuất sắc. Theo TS Tùng, một bài thi trắc nghiệm có xác suất đánh bừa đạt 2 điểm, nên Bộ GD&ĐT cần tăng mức điểm liệt (hiện tại là dưới một điểm). TS Nguyễn Đức Nghĩa, Phó giám đốc Đại học Quốc gia TP.HCM, nhận xét đề thi cần có sự phân hóa nhất định để khi xét tuyển không có trường hợp trượt oan, gây bức xúc cho thí sinh. Thầy Nghĩa thông tin với phổ điểm và điểm chuẩn như hiện nay có thể thấy độ phân hóa của đề tốt ở khoảng 15-25 điểm. Nhưng sau khoảng này, mức phân hóa của đề thi chưa tốt, dẫn đến việc có nhiều thí sinh điểm cao mà vẫn trượt đại học. Bởi thí sinh điểm cao dù chênh lệch lẻ trong khoảng 0,12 điểm (một nửa điểm khi làm tròn) cũng có thể từ rớt thành đậu, đậu thành rớt.Theo zing.vn
là đơn vị đối tác liên kết của nhiều trường Trung Cấp, Cao Đẳng, Đại học uy tín trên cả nước. Tư vấn tuyển sinh và nhận hồ sơ đăng ký các lớp đào tạo nghiệp vụ ngắn hạn, xét tuyển đầu vào hệ trung cấp , cao đẳng chính quy, liên thông, văn bằng 2 các ngành.
Bên cạnh đó, mảng dạy nghề nấu ăn ngắn hạn đang dần trở thành thế mạnh đào tạo của chúng tôi. Với đội ngũ giáo viên chuyên môn nhiều kinh nghiệm thực tế, giàu kỹ năng sư phạm sẽ giúp học viên phát triển sự tự tin và thành công trong ngành nghề ẩm thực đang phát triển mạnh mẽ.
Sứ mệnh của Viện Giáo Dục Đào Tạo Quốc Tế KVI sẽ đem đến một tổ hợp dịch vụ giáo dục tốt nhất, xây dựng cộng đồng học tập đa dạng và phong cách, thúc đẩy sự hợp tác và trao đổi ý tưởng trong môi trường đa văn hóa.
Nếu bạn đang quan tâm đến bất kỳ khóa học nào hay chưa định hướng được nghề nghiệp gì hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được tư vấn miễn phí nhé!
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO CHUẨN ĐHGQHN TRÌNH ĐỘ THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: GIÁO DỤC MẦM NON, GIÁO DỤC TIỂU HỌC
(Ban hành theo Quyết định số 1685, ngày 26 tháng 4 năm 2024 của Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội)
PHẦN I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO.
1. Một số thông tin về chương trình đào tạo
- Tên tiếng Việt: Giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học
- Tên tiếng Anh: Early Childhood Education, or Primary Education
- Mã số ngành đào tạo (đề xuất): 8140102
- Tên tiếng Việt: Khoa học giáo dục
- Tên tiếng Anh: Educational Science
- Tên tiếng Việt: Thạc sỹ Khoa học giáo dục
- Tên tiếng Anh: The Degree of Master in Educational Science
1.5. Đơn vị đào tạo và cấp bằng:
Trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội
2. Mục tiêu của chương trình đào tạo
Chương trình có mục tiêu đào tạo các nhà nghiên cứu, chuyên gia giáo dục thông qua việc trang bị cho người học các nguyên lý, lý thuyết hiện đại, những kỹ năng thực tiễn về giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học và các khoa học liên quan; trang bị cho người học những phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục trình độ cao, năng lực sáng tạo; rèn luyện đạo đức công dân và đạo đức nghề nghiệp để phát triển năng lực nghề nghiệp cho các nhà giáo; phát triển năng lực quản trị và quản lý cho người học.
- Hiểu biết về khoa học thần kinh và nhận thức lứa tuổi trẻ em, lí luận và công nghệ dạy học hiện đại, các phương pháp hiện đại trong nghiên cứu khoa học giáo dục và tâm lý; tạo cơ sở cho công tác giảng dạy, quản lí và nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học.
- Hiểu biết sâu về sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ em, sự phát triển biểu tượng toán học ở trẻ em,...; tạo cơ sở cho việc nghiên cứu và tổ chức hoạt động giáo dục ngôn ngữ, giáo dục toán học cho trẻ lứa tuổi mầm non và tiểu học.
- Hiểu biết về một số định hướng đổi mới trong lĩnh vực mầm non và tiểu học như: dạy học phân hóa, dạy học tích hợp, giáo dục trải nghiệm, giáo dục STEM...
- Có kỹ năng nghiên cứu khoa học và giảng dạy các lĩnh vực khoa học cho đối tượng trẻ mầm non và tiểu học.
- Có khả năng dự báo về xu thế phát triển giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học để xây dựng nội dung, chương trình giáo dục phù hợp với thực tiễn của đất nước và địa phương.
- Có kỹ năng làm việc nhóm, làm việc độc lập; kỹ năng tự học, nâng cao trình độ theo yêu cầu của thực tiễn nghề nghiệp.
- Có khả năng sử dụng Ngoại ngữ đạt từ bậc 4 (B2) trở lên hoặc tương đương theo Khung năng lực 6 bậc dùng cho Việt Nam.
Có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có lòng yêu nghề, có đạo đức trong sáng và lối sống lành mạnh, trung thực trong chuyên môn và trong cuộc sống.
Tôn trọng người học, có tinh thần hợp tác với đồng nghiệp, xây dựng môi trường làm việc thân thiện, tích cực.
Trường ĐHGD tổ chức tuyển sinh đào tạo thạc sĩ theo Hướng dẫn tuyển sinh sau đại học hằng năm của ĐHQGHN.